Kính thưa quý thính giả, để thoát ra khỏi vụ công hàm Phạm Văn Đồng, đảng CSVN đã bắt buộc phải nhìn nhận Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) — một chính thể mà suốt 60 năm qua Hà Nội không ngớt mạ lỵ bằng đủ mọi ngôn từ hạ cấp. Trong hai mục bình luận vừa qua, chúng tôi đã gửi đến quý vị phần đầu bài viết nhan đề “VNCH: chính thể hay ngụy quyền?” của tác giả Lê Vĩnh. Qua đó đã lược duyệt những yếu tố mang tính chất định nghĩa một quốc gia của thực thể VNCH cũng như nhấn mạnh về những thành tựu nổi bật trong lịch sử ngắn ngủi của VNCH, dù rằng chính quyền đó phải liên tục đối diện với cuộc chiến tranh khốc liệt do đảng CSVN phát động. Đến nay, khi buộc phải thừa nhận VNCH, CSVN sẽ phải nhận thêm những hệ lụy gì? Đây là điều sẽ được gửi đến quý vị trong phần cuối bài viết của tác giả Lê Vĩnh. Mời quý vị cùng nghe sau đây.
******
VNCH: Thêm một tiến thoái lưỡng nan cho lãnh đạo đảng CSVN
Đối diện với các bước xâm lấn ngày một trắng trợn của Bắc Kinh và trước các chứng tích bảo vệ đất nước không thể chối cãi của các chiến sĩ VNCH, lãnh đạo đảng CSVN đã thấy quá khó để tiếp tục gọi họ là “ngụy quyền bán nước”, đặc biệt sau khi mấy đời lãnh đạo CSVN liên tục ký nhượng đủ loại chủ quyền cho Bắc Kinh suốt từ Hội Nghị Thành Đô 1990 đến nay. Loại bài bản “ngụy quyền bán nước” nay cũng trơ trẽn và tác dụng ngược như việc nhà cầm quyền này tống người biểu tình phản đối Trung Cộng vào trại phục hồi nhân phẩm để “giáo dục họ về lòng yêu nước”.
Hơn thế nữa, khi quá kẹt vụ công hàm Phạm Văn Đồng, không còn cách chối tội nào khác, lãnh đạo Đảng đành dùng luận điểm chống chế: 2 quần đảo HS -TS lúc đó thuộc quyền cai quản của “chính thể VNCH”. Đây là điều mà đảng CSVN đã cố tránh suốt gần 4 thập niên qua vì những hệ lụy sau đây:
Khi đã công nhận VNCH là một chính thể với đầy đủ thẩm quyền trước thế giới và lại xử dụng cả những chứng tích bảo vệ chủ quyền đất nước bằng xương máu của họ thì nhà cầm quyền CSVN cũng đương nhiên đã thừa nhận những luận điệu bôi nhọ VNCH “tay sai bán nước” là hoàn toàn dối trá. Và nếu VNCH không “bán nước” thì Hoa Kỳ cũng không thể là “đế quốc” tại Việt Nam.
Khi đã công nhận VNCH là một chính thể thì không thể tiếp tục phủ nhận cơ chế, sinh hoạt cũng như mức phát triển của xã hội bên dưới thể chế này. Và với những chi tiết đó, ai cũng có thể thấy đời sống của người dân tại miền Nam trong mọi lãnh vực từ nhân phẩm, nhân quyền đến các lợi ích giáo dục, kinh tế đều diễm phúc hơn đồng bào của họ tại miền Bắc. Do đó luận điệu “giải phóng miền Nam” cũng đương nhiên được thừa nhận là hoàn toàn dối trá.
Với 2 sự thừa nhận nêu trên thì lý do duy nhất còn lại của lãnh đạo CSVN khi nhất định đốt cả dãy Trường Sơn để “giải phóng” miền Nam chỉ có thể là: dùng máu người Việt cùng với súng Nga và đạn Tàu để mở rộng thế giới đỏ. Đúng như lời Tổng Bí Thư Lê Duẫn buột miệng nói ra trong một phút quá cao hứng sau ngày chiến thắng: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc!”
Cái công trạng “lãnh đạo toàn dân đánh Mỹ cứu nước” không những lập tức biến mất mà còn hiện ra một món nợ máu kinh hồn của hàng triệu sinh mạng người Việt Nam chỉ vì vài lãnh đạo Đảng thích cầm cờ đầu cho Mátxcơva và Bắc Kinh.
Chính từ sự giằng co giữa nhu cầu phải công nhận chính thể VNCH để thoát vụ công hàm Phạm Văn Đồng và nỗi sợ các hệ lụy của sự công nhận đó mà người ta thấy trong lúc báo chí công cụ nhắc đến “chính thể VNCH” và trận chiến Hoàng Sa nhưng công an lại được tung ra để phá hoại những buổi lễ của dân tưởng nhớ những người con anh dũng đó của đất nước. Công an sẵn sàng giở cả những trò hèn kém như đóng kịch cắt đá hay xông vào giật nhang, giật hoa, và gây sự để bắt bớ tại các buổi lễ tưởng niệm. Lãnh đạo đảng còn sợ đến độ tìm đủ loại lý cớ để bắt giam những người như blogger Nguyễn Hữu Vinh (Ba Sàm) để không chỉ đóng trang tổng hợp tin tức của anh mà còn để đóng cả trang Viết Sử Việt do anh chủ trương.
Nhưng có lẽ nhà cầm quyền CSVN đã quá chậm và quá trễ trong thời đại Internet hiện nay. Một xã hội nhân bản, một chính phủ có khả năng, và một thể chế yêu nước như thời VNCH đang là ước vọng của rất nhiều người Việt Nam thuộc đủ mọi lứa tuổi và thành phần. Chính vì vậy mà trong mấy năm qua đã có những buổi biết ơn thương phế binh VNCH tại chùa Liên Trì, tại dòng Chúa Cứu Thế, và buổi lễ thành kính tưởng niệm những lãnh tụ và tướng lãnh VNCH đã hy sinh vì nước vì dân.
Với tình hình hiện nay, dù tìm đủ cách vặn vẹo, thoái thác, và trấn áp đảng CSVN vẫn ngày càng nhích gần tới lằn mức phải thừa nhận những hành động phản lại đất nước và những núi nợ xương máu dân tộc mà các thế hệ lãnh đạo đảng đã gây ra từ ngày thành lập cho đến nay — giống như tất cả các đảng cộng sản khác trên thế giới mà nhân loại đã ghi chi tiết trong cuốn Sách Đen Cộng Sản: Tội ác, Khủng bố, Đàn áp (The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression).
Liệu hàng ngũ đảng viên và thế hệ lãnh đạo đảng CSVN kế tiếp có muốn thừa kế cái di sản tội lỗi và các món nợ đó không? Nếu không thì phải làm gì?